- Cơ sở pháp lý
Điều 61 Luật SHTT:
Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai trước ngày nộp đơn. Sáng chế được coi là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
Điểm 25.6.b Thông tư 01-2007/TT-BKHCN:
b) Đánh giá trình độ sáng tạo
Việc đánh giá trình độ sáng tạo của giải pháp kỹ thuật nêu trong đơn được thực hiện bằng cách đánh giá dấu hiệu (các dấu hiệu) cơ bản khác biệt nêu trong phạm vi (yêu cầu) bảo hộ để đưa ra kết luận:
(i) Dấu hiệu (các dấu hiệu) cơ bản khác biệt có bị coi là đã được bộc lộ trong nguồn thông tin tối thiểu bắt buộc hay không, và;
(ii) Tập hợp các dấu hiệu cơ bản khác biệt có bị coi là có tính hiển nhiên đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng hay không.
Ứng với một điểm thuộc phạm vi (yêu cầu) bảo hộ, giải pháp kỹ thuật được coi là có trình độ sáng tạo nếu việc đưa dấu hiệu cơ bản khác biệt vào tập hợp các dấu hiệu cơ bản của giải pháp kỹ thuật là kết quả của hoạt động sáng tạo và không phải là kết quả hiển nhiên của hiểu biết thông thường trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
Thuật ngữ “hiển nhiên” được dùng để chỉ việc tạo ra sáng chế không nằm ngoài tiến trình phát triển thông thường của công nghệ và chỉ là sự phát triển mang tính đơn giản hoặc logic (kết hợp) từ các giải pháp kỹ thuật đã biết.
2. Nguyên tắc chung đánh giá tính sáng tạo:
➢ Đánh giá theo từng điểm yêu cầu bảo hộ so sánh với tình trạng kỹ thuật của sáng chế
➢ Đánh giá dựa trên người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng
➢ Sử dụng một tài liệu hoặc kết hợp các tài liệu trong tình trạng kỹ thuật để đánh giá trình độ sáng tạo
➢ Giải pháp kỹ thuật không mới thì cũng không sáng tạo
➢ Giải pháp kỹ thuật mới có thể sáng tạo hoặc không sáng tạo
Vui lòng liên hệ với sđt 0862132380 hoặc email: ip@ipct.vn để được tư vấn tốt nhất